Đau sau mổ là gì? Các công bố khoa học về Đau sau mổ

Đau sau mổ, còn được gọi là đau sau phẫu thuật, là một loại đau mà người bệnh có thể trải qua sau khi điều trị bằng phẫu thuật. Đau sau mổ thường xảy ra do một ...

Đau sau mổ, còn được gọi là đau sau phẫu thuật, là một loại đau mà người bệnh có thể trải qua sau khi điều trị bằng phẫu thuật. Đau sau mổ thường xảy ra do một số nguyên nhân như: tổn thương mô mềm, viêm nhiễm, căng thẳng cơ, nhiễm khuẩn, hoặc do tác động của quá trình phẫu thuật. Triệu chứng của đau sau mổ có thể bao gồm đau, sưng, đỏ, hạn chế chức năng và cảm giác khó chịu trong khu vực phẫu thuật. Để giảm đau sau mổ, bác sĩ thường sẽ kê đơn thuốc giảm đau hoặc kháng viêm, chỉ định các biện pháp điều trị không dùng thuốc hoặc tiến hành các biện pháp chăm sóc phẫu thuật.
Đau sau mổ là một tình trạng phổ biến và thường xảy ra sau các phẫu thuật lớn hoặc những quá trình can thiệp không nhỏ. Nguyên nhân chính của đau sau mổ bao gồm:

1. Tổn thương mô mềm: Trong quá trình phẫu thuật, các mô và cơ xung quanh khu vực phẫu thuật bị tác động, cắt, nạo, kéo dãn hoặc chấn thương. Đây là nguyên nhân chính gây đau sau mổ. Tổn thương mô mềm làm kích thích các dây thần kinh, mô bên trong hoặc sự bài tiết của các chất viêm trong cơ thể, gây ra cảm giác đau.

2. Viêm nhiễm: Bất kỳ quá trình phẫu thuật nào cũng có thể gây ra một mức độ viêm nhiễm. Các vi khuẩn hoặc mầm bệnh khác có thể xâm nhập qua vết mổ và gây ra viêm nhiễm trong khu vực phẫu thuật. Viêm nhiễm có thể gây đau, sưng, sưng nóng, đỏ và tiếp tục bốc hơi và có thể yêu cầu sự can thiệp y tế với kháng sinh để điều trị.

3. Căng thẳng cơ: Trong quá trình phẫu thuật, các cơ xung quanh vị trí phẫu thuật có thể bị căng thẳng hoặc bị tổn thương. Điều này có thể làm cho cơ bị hiểu lạc và gây ra đau sau mổ.

Các triệu chứng của đau sau mổ có thể bao gồm:

1. Đau: Đau có thể kéo dài hoặc nhấp nháy và diễn ra trong thời gian dài sau phẫu thuật. Đau có thể là ở mức độ nhẹ đến nghiêm trọng và có thể thay đổi theo thời gian thông qua quá trình phục hồi.

2. Sưng: Khu vực phẫu thuật có thể sưng do một số nguyên nhân như viêm nhiễm hoặc mất nước.

3. Đỏ: Một sự đỏ và viêm có thể xảy ra xung quanh vết mổ. Đây là một dấu hiệu của phản ứng viêm.

4. Hạn chế chức năng: Đau và sưng có thể làm hạn chế khả năng di chuyển và sử dụng khu vực bị ảnh hưởng, làm hại đến chức năng hằng ngày.

5. Cảm giác khó chịu: Ngoài cảm giác đau thì những triệu chứng như ngứa, chiết xuất hoặc nhạy cảm có thể xảy ra trong khu vực phẫu thuật.

Để giảm đau sau mổ, bác sĩ thường sẽ kê đơn thuốc giảm đau, chẳng hạn như paracetamol, aspirin hoặc các loại thuốc chống viêm không steroid. Các biện pháp không dùng thuốc bao gồm đặt nhiệt lên khu vực đau, làm giảm quá trình viêm và tư vấn về chiến lược quản lý đau. Các biện pháp chăm sóc phẫu thuật bao gồm làm sạch và băng bó vết mổ, đảm bảo vùng bị ảnh hưởng được giữ khô ráo và sử dụng các phương pháp điều trị tác động như vật lý trị liệu và liệu pháp điện từ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đau sau mổ":

Đánh giá độ dung nạp và hiệu quả giảm đau của dung dịch paracetamol tiêm tĩnh mạch mới ở trẻ em sau phẫu thuật thoát vị bẹn Dịch bởi AI
Paediatric Anaesthesia - Tập 15 Số 8 - Trang 663-670 - 2005
Tóm tắt

Đề cương: Một công thức tiêm tĩnh mạch (i.v.) mới của paracetamol và propacetamol (tiền dược của paracetamol) đã được so sánh để xác định độ dung nạp và hiệu quả giảm đau tương đối trong 6 giờ đầu tiên sau khi phẫu thuật sửa thoát vị bẹn được thực hiện dưới gây mê toàn thân kết hợp với chẹn ilioinguinal ở trẻ em.

Phương pháp: Một tổng số 183 bệnh nhân ASA I hoặc II, độ tuổi 1–12 tuổi, nhập viện để phẫu thuật sửa thoát vị bẹn đơn bên đã được ngẫu nhiên phân ra nhận liệu pháp paracetamol tiêm tĩnh mạch 15 mg·kg−1 (n = 95) hoặc propacetamol 30 mg·kg−1 (n = 88) nhằm giảm đau sau phẫu thuật ngay khi cường độ đau cao hơn 30 trên thang điểm analog thị giác 100 mm. Tất cả bệnh nhân đều được đánh giá về hiệu quả và độ dung nạp. Hiệu quả được đánh giá giữa 15 phút và 6 giờ sau khi bắt đầu truyền trong 15 phút.

#paracetamol #propacetamol #điều trị giảm đau #thoát vị bẹn #trẻ em
Đau rễ dây thần kinh muộn sau hai lần tiêm máu ngoài màng cứng với thể tích lớn do đau đầu sau chọc dò cùng cột sống: Một báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI
Pain Physician - Tập 3;13 Số 3;5 - Trang 257-262 - 2010

Giới thiệu: Đau đầu sau chọc dò màng cứng (PDPH) là một biến chứng đã biết của chọc dò cùng cột sống chẩn đoán. Nhiều yếu tố, bao gồm kích thước kim, loại kim và hướng của mặt kim, đã được giả định là góp phần vào sự phát triển của PDPH. Triệu chứng của PDPH thường có đặc điểm cổ điển bao gồm đau đầu tư thế, buồn nôn, nôn mửa, ù tai và rối loạn thị giác. Các biện pháp điều trị bảo tồn bao gồm nghỉ ngơi trên giường, truyền dịch tĩnh mạch hoặc caffeine, và thuốc giảm đau. Các trường hợp kháng trị có thể cần một miếng vá máu ngoài màng cứng (EBP). Mặc dù biến chứng là hiếm xảy ra, đã có báo cáo về các trường hợp đau ngay sau thủ tục và tụ máu ngoài màng cứng. Dưới đây chúng tôi trình bày một ca PDPH được điều trị bằng các EBP tuần tự dẫn đến đau rễ dây thần kinh muộn. Báo cáo ca bệnh: Một phụ nữ 29 tuổi đã đến phòng cấp cứu với cơn đau đầu trán dữ dội kéo dài vài ngày. Cô ấy đã trải qua một chọc dò cùng cột sống chẩn đoán như một phần của quy trình đánh giá. Sau đó, 24-48 giờ sau, cô phát triển cơn đau đầu tư thế nặng nề không đáp ứng với các biện pháp chăm sóc bảo tồn. Hai ngày sau, cô trải qua một miếng vá máu ngoài màng cứng với 20 mL máu tự thân. Triệu chứng của cô không giảm, dẫn đến việc thực hiện lại EBP trong vòng 24 giờ với thêm 20 mL máu tự thân. Năm ngày sau, bệnh nhân bắt đầu trải qua các cơn co thắt cơ và đau rễ dây thần kinh ở mông và chân sau bên trái, khu vực mà cơn đau lan xuống bắp chân sau. Bệnh nhân được bắt đầu dùng pregabalin 25mg 3 lần mỗi ngày và tiến hành chụp MRI cột sống thắt lưng có tiêm gadolinium. Cô tái khám 5 ngày sau với triệu chứng không thay đổi và MRI âm tính. Sau đó, bệnh nhân bắt đầu dùng liều giảm methylprednisolone và tiếp tục dùng pregabalin. Tại thời điểm tái khám sau 10 ngày, có 90% triệu chứng đã được cải thiện và cường độ đau đạt 1/10 theo thang điểm NRS. Hiện tại, cô ấy vẫn tiếp tục dùng pregabalin và có kế hoạch ngừng thuốc. Thảo luận: Mặc dù EBP thường là một thủ tục an toàn, các biến chứng có thể xảy ra. Phản ứng viêm, thứ phát từ việc tiêm máu, hoặc sự chèn ép cơ học, do tổng thể tích máu được tiêm, được nhấn mạnh như là các tác nhân có thể gây ra biến chứng này. Vai trò của hình ảnh dưới fluoroscopy, đặc biệt ở những bệnh nhân đã thất bại với EBP ban đầu, cũng cần được xem xét. Với tỷ lệ sai lệch trong việc nhận diện mất kháng cự (17-30%) được báo cáo trong tài liệu, việc sử dụng hình ảnh thời gian thực để đảm bảo vị trí kim chính xác và sự lan truyền của dung dịch tiêm sau đó nên được xem xét.

#miếng vá máu #ngoài màng cứng #đau rễ #đau đầu sau chọc dò màng cứng #biến chứng #fluoroscopy #ngoài màng cứng
Khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn giúp giảm đau sau phẫu thuật cho bệnh nhân thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến Dịch bởi AI
Pain Physician - Tập 4 Số 22;4 - Trang E315-E323 - 2019

Nền tảng: Việc áp dụng đồng thời khối thần kinh ngực và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn (SPB) là một trong những chiến lược giảm đau đa phương pháp được mong muốn nhất, với việc thực hiện rộng rãi lộ trình phục hồi sớm sau phẫu thuật cho phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến (MRM). Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu hiện tại là điều tra hiệu quả và an toàn của khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I (PECS I) và SPB trong giảm đau sau phẫu thuật sau MRM. Thiết kế nghiên cứu: Một nghiên cứu ngẫu nhiên, tiềm năng. Địa điểm: Một trung tâm y tế học thuật. Phương pháp: Tổng cộng có 61 phụ nữ thực hiện MRM được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm chứng (nhóm C, n = 32) chỉ nhận gây mê toàn thân, trong khi nhóm điều trị PECS I + SPB (nhóm PS, n = 29) nhận được sự kết hợp của khối thần kinh ngực và SPB bên cạnh gây mê toàn thân. Kết quả: Điểm đau trên thang đo analog trực quan, mức tiêu thụ opioid, thời gian ở đơn vị chăm sóc hậu phẫu, và tỷ lệ sự kiện bất lợi thấp hơn ở nhóm PS so với nhóm C. Hơn nữa, PECS I kết hợp với SPB cải thiện chất lượng giấc ngủ và mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với việc giảm đau. Giới hạn: Nghiên cứu này bị giới hạn bởi kích thước mẫu. Kết luận: Những kết quả này cho thấy sự kết hợp của PECS I và SPB cung cấp sự giảm đau ngoại khoa ưu việt trong phẫu thuật ung thư vú.

#Khối thần kinh ngực #khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn #giảm đau sau phẫu thuật #phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến
Đánh giá hiệu quả giảm đau sau phẫu thuật thay khớp háng của phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn siêu âm
Nghiên cứu nhằm mục tiêu đánh giá tác dụng giảm đau và các tác dụng không mong muốn của phương pháp gây tê liên tục cơ vuông thắt lưng dưới hướng dẫn siêu âm sau phẫu thuật thay khớp háng. 30 bệnh nhân phẫu thuật thay khớp háng theo chương trình được được giảm đau sau mổ bằng phương pháp gây tê cơ vuông thắt lưng liên tục dưới hướng dẫn của siêu âm tại Trung tâm Gây mê và Hồi sức ngooại khoa – Bệnh viện Việt Đức từ tháng 4 đến tháng 8 năm 2019. Thời gian thực hiện kĩ thuật, vùng phong bế cảm giác, điểm đau VAS khi nghỉ và khi vận động, mức độ hài lòng của bệnh nhân và số lượng morphin tiêu thụ và một số tác dụng không mong muốn được ghi lại trong 48 giờ sau mổ. Thời gian thực hiện kĩ thuật trung bình là 16,03 ± 2,80 (phút). 100% người bệnh phong bế được thần kinh chậu bẹn chậu hạ vị; 96,7% phong bế được thần kinh đùi và thần kinh bì đùi ngoài; 70% phong bế được thần kinh sinh dục đùi và 50% phong bế được thần kinh bịt. Điểm VAS trung bình khi nghỉ đều < 3 và khi vận động đều xấp xỉ 4 ở tất cả các thời điểm. Có 1 bệnh nhân phải giải cứu bằng morphin với tổng liều 36 mg và 96,7% bệnh nhân có mức độ hài lòng và rất hài lòng. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy gây tê cơ vuông thắt liên tục dưới hướng dẫn siêu âm có hiệu quả giảm đau tốt sau mổ cho các phẫu thuật thay khớp háng.
#gây tê cơ vuông thắt lưng #thay khớp háng #hướng dẫn của siêu âm #giảm đau sau mổ
HIỆU QUẢ GIẢM ĐAU SAU MỔ CỦA GÂY TÊ NGOÀI MÀNG CỨNG TRONG PHẪU THUẬT LẤY THAI TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 8 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu so sánh hiệu quả giảm đau của gây tê NMCvới giảm đau đường toàn thân trong phẫu thuật mổ lấy thai tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An.Đối tượng - Phương pháp: Nghiên cứu mô tả lâm sàng có đối chứng với 120 bệnh nhân đượcphẫu thuật lấy thai có ASA I và II, độ tuổi từ 18 đến 42 tuổi, được phân thành hai nhóm: nhóm A(n=60) giảm đau sau mổ bằng anaropin kết hợp fentanyl qua đường gây tê NMC và nhóm B(n=60) giảm đau sau mổ bằng paracetamol qua đường tĩnh mạch và morphin tiêm bắp. Đánh giákết quả qua theo dõi thang điểm đau VAS, tác dụng không mong muốn và tai biến trong 24 giờ sauphẫu thuật.Kết quả: Kết quả không có sự khác biệt giữa hai nhóm về độ tuổi, cân nặng, ASA, thời gianphẫu thuật. Điểm đau VAS trung bình ở nhóm A thấp hơn nhóm B ở mọi thời điểm theo dõi(p<0.05) đối với cả 2 đường mổ[6],[7]. Trong 24 giờ đầu sau mổ, nhóm A tỷ lệ bệnh nhân hài lònglà 100% trong đó có 73.33% là rất hài lòng; nhóm B tỷ lệ bệnh nhân hài lòng là 95% trong đó có45% rất hài lòng. Nhóm A có 2 bệnh nhân (3,33%) và nhóm B có 12 bệnh nhân (20%) buồn nônvà nôn (p < 0,05).Kết luận: Gây tê NMC bằng anaropin 0,1% phối hợp fentanyl 1mcg/ml có chất lượng giảm đauvà sự hài lòng của sản phụ (100% sản phụ hài lòng trong đó có 73.33% rất hài lòng) tốt hơn giảmđau bằng paracetamol tĩnh mạch phối hợp morphin tiêm bắp (95% sản phụ hài lòng trong đó 45%sản phụ rất hài lòng) trong phẫu thuật lấy thai. Gây tê NMC bằng anaropin 0,1% phối hợp fentanyl1 mcg/ml là kỹ thuật an toàn, ít tác dụng phụ và tác dụng không mong muốn (1,67% sản phụ cóngứa và 3.33% nôn buồn nôn) hơn dùng paracetamol tĩnh mạch phối hợp morphin tiêm bắp (20%sản phụ có nôn, buồn nôn).
#Giảm đau #gây tê ngoài màng cứng #giảm đau sau mổ.
Đánh giá sự hài lòng của người bệnh khi được sử dụng phương pháp giảm đau ngoài màng cứng sau phẫu thuật vùng bụng
Mục tiêu: Đánh giá sự hài lòng của người bệnh khi sử dụng giảm đau ngoài màng cứng và xác định một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng của người bệnh. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 126 người bệnh phẫu thuật vùng bụng áp dụng phương pháp giảm đau ngoài màng cứng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 9 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Bộ câu hỏi bao gồm thông tin chung, thang điểm đau VAS và bộ câu hỏi đánh giá về hài lòng của người bệnh được sử dụng trong nghiên cứu này. Chúng tôi sử dụng thống kê mô tả để mô tả tần suất và tỷ lệ phần trăm đặc điểm người bệnh, kiểm định Chi bình phương để đánh giá một số yếu tố liên quan đến sự hài lòng của người bệnh. Kết quả và kết luận: Người bệnh là nam giới chiếm 53,9%, dưới 60 tuổi 58,7%, và có thời gian mổ trung bình 53,1%. Hài lòng về hiệu quả giảm đau và hài lòng chung về giảm đau tương ứng là 83,3% và 87,1%, chỉ có tê bì chân khi dùng giảm đau ngoài màng cứng có ý nghĩa thống kê liên quan đến sự không hài lòng về dịch vụ giảm đau của bệnh viện (p<0,05). 
#Đau sau mổ #giảm đau ngoài màng cứng #hài lòng của người bệnh
THÀNH PHẦN SÂU HẠI ĐẬU TƯƠNG, MỨC ĐỘ GÂY HẠI CỦA MỘT SỐ SÂU HẠI CHÍNH VÀ HIỆU LỰC CỦA MỘT SỐ THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT TRỪ SÂU TẠI HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA
Nghiên cứu đã phát hiện trên cây đậu tương có 14 loài sâu hại thuộc 6 bộ: Lepidoptera (07 loài), Hemiptera (02 loài), Coleoptera (02 loài), Homoptera (01 loài), Orthoptera (01 loài) và Diptera (01 loài). Trong đó, sâu cuốn lá (Lamprosema indicata Fab.), sâu đục qủa (Etiella zinkenella Treit.), rệp đậu (Aphis glycines Mat.) và sâu đục thân (Melanagromyza sojae Zehntner) là các loài xuất hiện và gây hại chính. Ở vụ Xuân Hè, sâu cuốn lá đậu tương (Lamprosema indicata Fab.) là đối tượng gây hại chủ yếu, mật độ sâu đạt cao nhất (26,64 con/m2) ở giai đoạn cây phân cành. Rệp hại đậu tương (Aphis glycines Mat.) là loài gây hại chủ yếu trên cây đậu tương ở vụ Hè Thu, chỉ số hại của rệp đạt cao nhất đạt 3,49% ở giai đoạn phân cành. Độ hữu hiệu của thuốc MECTINSTAR 50WSG (hoạt chất emamectin benzoate + matrine) trừ sâu sâu cuốn lá Lamprosema indicata cao hơn có ý nghĩa (P=0.05) so với EMACINMEC 50WSG (hoạt chất emamectin benzoate + azadirachtin) và EMAVUA 50WDG (hoạt chất emamectin benzoate); độ hữu hiệu của thuốc MECTINSTAR 50WSG trừ sâu đạt cao nhất 79,89%, thuốc EMACINMEC 50WSG đạt cao nhất ở 65,98%, thuốc EMAVUA 50WDG đạt cao nhất 66,83%. Độ hữu hiệu của EMACINMEC 50WSG trừ rệp hại đậu tương Aphis glycines đạt từ 63,69-73,31%, MECTINSTAR 50WSG đạt từ 52,17-57,12%, ACCENTA 50EC đạt từ 54,75-58,29%.
Thực trạng đau ba ngày đầu sau mổ và yếu tố liên quan của người bệnh phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 42 Số 1 - Trang 67-73 - 2022
Mục tiêu: Mô tả triệu chứng đau trong ba ngày đầu sau mổ của người bệnh được phẫu thuật nội soi vá thông liên nhĩ và phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng đau của người bệnh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu (theo dõi ngày 1, ngày 2, ngày 3) trên 37 người bệnh phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi có gây tê vùng từ 18 tuổi trở lên tại Viện Tim mạch Việt Nam từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 9 năm 2019. Người bệnh được đánh giá mức độ đau bằng thang VAS. Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 2/3, tuổi trung bình 37,8 ± 13,2 (tuổi). Mức độ đau trung bình của người bệnh giảm từ 3,62±0,82 (ngày thứ 1), 2,27±0,45 (ngày thứ 2), 1,73±0,51 (ngày thứ 3) (p<0,001). Ngày thứ 1, 56,8% đau ít, 40,5% đau vừa, 2,7% rất đau. Ngày thứ 2, 100% đau ít. Ngày 3, 29,7% không đau, 70,3% đau ít. 100% người bệnh đau ở mạn sườn phải, hạ sườn phải. Tỷ lệ đau ở cổ giảm từ 89,2% ở ngày 1 xuống 8,1% ở ngày 2 và 0,0% ở ngày 3. Tỷ lệ đau giữa hai xương bả vai là 59,5% (ngày 1), 37,8% (ngày 2) và 29,7% (ngày 3). Mức độ đau của nữ cao hơn nam, học sinh sinh viên cao hơn công nhân, nông dân, người bệnh rút nội khí quản muộn (6h-24h) cao hơn rút sớm (<6h), người bệnh không được giải thích tình trạng đau trong và sau mổ cao hơn người bệnh được giải thích đầy đủ, các sự khác biệt trên có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kết luận: Mức độ đau của người bệnh đa phần là từ mức đau vừa trở xuống và giảm dần trong 3 ngày sau mổ (p<0,001). Một số vị trí đau hay gặp mạn sườn trái, hạ sườn trái, cổ. Có yếu tố liên quan giữa mức độ đau với giới tính, nghề nghiệp, thời gian rút nội khí quản, được giải thích tình trạng đau trước mổ.
#Đau sau mổ #phẫu thuật vá thông liên nhĩ nội soi.
Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (erector spinae plane block) cho phẫu thuật tim hở
Áp dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống giúp giảm đau và không cần sử dụng opioid sau phẫu thuật tim hở. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật tim hở. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng được thực hiện từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 54 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 80, có chỉ định mổ tim hở theo kế hoạch, được đặt catheter ESPB hai bên ngay trước khi khởi mê, liều ropivacain tính theo cân nặng bệnh nhân, phối hợp thêm paracetamol truyền tĩnh mạch sau mổ. Điểm visual analogue scale, huyết áp trung bình khi nghỉ và khi vận động được đánh giá tại các thời điểm ngay sau rút nội khí quản và sau rút là 6, 12, 18, 24, 36, 48 giờ; đánh giá khí máu động mạch mỗi 24 và 48 giờ. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi nghỉ < 3 và khi vận động ≤ 4. Có 7,4% bệnh nhân phải chuẩn độ morphin; 3,7% bệnh nhân phải phối hợp PCA morphin. ESPB (Erector spinae plane block) không làm tụt huyết áp và các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường ở các thời điểm nghiên cứu; không có biến chứng sau phẫu thuật. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật tim hở.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #mổ tim hở #giảm đau.
PHÂN TÍCH SỐNG THÊM VÀ ĐỘC TÍNH PHÁC ĐỒ HÓA CHẤT CẢM ỨNG THEO SAU HÓA XẠ ĐỒNG THỜI TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN III/IV (M0)
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Mục tiêu: Phân tích kết quả sống thêm bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa được điều trị hóa chất cảm ứng phác đồ TCF, sau đó hóa xạ đồng thời tại bệnh viện K và đánh giá một số độc tính của phác đồ hóa xạ đồng thời. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, có theo dõi dọc trên 47 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa (M0), được điều trị bằng hóa chất trước phác đồ TCF sau đó hoá xạ đồng thời phác đồ platinum tuần tại Bệnh viện K từ 01/2019 đến 12/2022. Kết quả: Thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trung vị là 13,5 tháng. Tỷ lệ sống thêm bệnh không tiến triển tại thời điểm 1 năm là 62%, tại thời điểm 2 năm là 29%. Độc tính chủ yếu là hạ bạch cầu hạt, thường gặp độ 1-2; hạ bạch cầu hạt độ 3-4 gặp 4 trường hợp. Thiếu máu độ 3-4 gặp 4,2%. Hạ tiểu cầu độ 3 gặp 2,1% trường hợp. Độc tính ngoài hệ tạo huyết chủ yếu liên quan đến xạ trị, đa phần độ 1-2. Viêm miệng độ 3 gặp 6,4%; độ 4 gặp 2,1%. Khô miệng độ 3 gặp 4,2% và độ 4 gặp 2,1%. Kết luận: Hóa chất cảm ứng TCF theo sau hóa xạ đồng thời cải thiện thời gian sống thêm bệnh không tiến triển trong điều trị ung thư biểu mô vảy vùng đầu cổ giai đoạn tại chỗ, tại vùng chưa di căn xa. Độc tính phác đồ hóa xạ kiểm soát được.
#ung thư biểu mô vảy đầu cổ #tại chỗ-tại vùng #hóa chất cảm ứng TCF
Tổng số: 104   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10